Nhiều người Việt Nam hẳn vẫn nhớ rõ ngày 23 tháng 1 năm 2020, khi cả nước nhận được tin tức về một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, lần đầu xuất hiện ở Trung Quốc, đã lây lan sang Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng thực hiện các biện pháp nghiêm ngặt để ngăn chặn sự lây lan của căn bệnh mà sau này được biết đến trên toàn cầu với tên gọi COVID-19. Trong những tháng tiếp theo, các chính phủ trên toàn thế giới đã áp dụng các biện pháp tương tự, như hạn chế đi lại, đóng cửa trường học, bắt buộc đeo khẩu trang và cách ly.
Tuy nhiên, nhiều quốc gia vẫn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng như quá tải các cơ sở y tế, thiếu hụt nhân lực và các nguồn lực y tế công cộng khác. Điều này đã cho thấy hệ thống y tế dễ bị tổn thương đến mức nào trước các tình huống khẩn cấp quy mô lớn.
Câu hỏi đặt ra là: làm thế nào để các quốc gia như Việt Nam có thể chuẩn bị tốt hơn cho việc phòng chống dịch bệnh và ứng phó với các tình huống y tế khẩn cấp trong tương lai? Đây là một câu hỏi quan trọng, bởi các yếu tố như biến đổi khí hậu và sự tương tác ngày càng tăng giữa con người và thiên nhiên cho thấy các dịch bệnh và tình huống y tế khẩn cấp có thể trở nên thường xuyên hơn trong những năm tới.
Sự xuất hiện của COVID-19 vào năm 2020 đã bộc lộ những hạn chế đáng kể trong khả năng ứng phó khẩn cấp với các dịch bệnh của Việt Nam. Các dịch vụ y tế thiết yếu bị gián đoạn, trong khi những khoảng trống về năng lực như phối hợp liên ngành, lập kế hoạch, truyền thông và sự tham gia của cộng đồng cũng trở nên rõ ràng. Ngoài ra, các nhóm dễ bị tổn thương cũng gặp khó khăn trong việc tham gia vào các hoạt động chung, ảnh hưởng đến cách tiếp cận toàn xã hội.
Để giải quyết những vấn đề này, Quỹ Hỗ trợ phát triển Xã hội của Nhật Bản, thông qua Ngân hàng Thế giới đã tài trợ 2,75 triệu đô la Mỹ cho dự án: “Tăng cường chuẩn bị và ứng phó với đại dịch COVID-19 ở cấp cơ sở tại Việt Nam”. Dự án được Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội bắt đầu thực hiện vào tháng 8 năm 2021. Dự án tập trung giải quyết một khía cạnh thường bị bỏ qua trong công tác phòng chống dịch bệnh khẩn cấp đó là năng lực ứng phó của cộng đồng địa phương.
Một yếu tố rất quan trọng trong công tác phòng chống dịch bệnh là cần phải có các cán bộ y tế có chuyên môn và kỹ năng tốt. Dự án đã tổ chức các khóa đào tạo chuyên ngành cho 147 giảng viên cấp tỉnh và huyện, cùng 388 học viên. Dự án cũng hỗ trợ 27 cuộc diễn tập khẩn cấp tại các địa bàn của dự án. Bên cạnh đó, 876 nhân viên y tế xã và 1.412 cán bộ y tế địa phương đã được đào tạo về phòng ngừa và kiểm soát nhiễm khuẩn, duy trì các dịch vụ y tế thiết yếu trong đại dịch, hỗ trợ điều trị và chuyển tuyến bệnh nhân khi cần thiết.
Kết quả của dự án rất đáng ghi nhận. Tỷ lệ cán bộ y tế được đánh giá có kiến thức tốt về ứng phó dịch bệnh tăng gần gấp ba, từ 28% khi bắt đầu dự án lên 75,6% sau khi dự án kết thúc.
Các khóa đào tạo này không chỉ hướng tới sự chuẩn bị cho công tác phòng chống và ứng phó dịch bệnh trong tương lai mà còn hỗ trợ nâng cao việc cung cấp dịch vụ y tế hiện tại. Một học viên ở xã Ninh An đã chia sẻ: “Nhờ khóa học này, tôi đã có kiến thức chuyên môn tốt hơn. Tôi có thể áp dụng các kiến thức này hiệu quả hơn trong công việc hàng ngày, đặc biệt là trong việc phòng ngừa và ứng phó với các bệnh truyền nhiễm cho người dân địa phương.”
Dự án cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của cộng đồng và người dân trong việc giữ an toàn cho bản thân và những người xung quanh. Dự án đã cung cấp các khóa đào tạo cho các cán bộ lãnh đạo huyện, chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội và học sinh. Đến nay, 27.000 người tại 27 xã thuộc các tỉnh Vĩnh Phúc, Khánh Hòa và Long An đã được đào tạo để ứng phó với các tình huống khẩn cấp, trong đó có 5.756 người từ các nhóm dễ bị tổn thương bao gồm nhóm người nghèo, người cao tuổi, người sử dụng ma túy, gái mại dâm, lao động nhập cư không chính thức, người có HIV/AIDS và đại diện của dân tộc thiểu số Khmer.
Dự án đã có những cách tiếp cận độc đáo, cho phép mở rộng phạm vi tới các cộng đồng dễ bị tổn thương. Thông qua 10 mạng lưới của 100 tình nguyện viên từ các cộng đồng này, dự án cung cấp kiến thức và đào tạo về phòng chống COVID-19 và các dịch bệnh khác, kỹ năng tiếp cận và truyền thông, hỗ trợ tâm lý cơ bản và tư vấn giải quyết bạo lực giới.
Một sáng kiến khác của dự án là tăng cường truyền thông qua mạng xã hội. Từ tháng 5 năm 2023, hơn 2.500 tin nhắn với các thông tin về y tế kịp thời và chính xác đã được phổ biến rộng rãi qua nền tảng Zalo. Những tin nhắn này giúp nâng cao kiến thức phòng ngừa dịch bệnh của người dân từ 37% lên 95%. Chính quyền địa phương hiện vẫn sử dụng mạng lưới Zalo này để chia sẻ thông tin y tế và các vấn đề khác.
Dự án này đã chứng minh rằng việc thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương và các nhóm dễ bị tổn thương ở cấp cơ sở có thể tăng cường khả năng chuẩn bị và phục hồi trong các tình huống y tế khẩn cấp. Điều thú vị là, để đạt được những thành tựu lớn, đôi khi chúng ta cần bắt đầu từ những hành động nhỏ.
Nội dung được trích dẫn trong bài viết của Ngân hàng Thế giới.
Tìm hiểu thêm về bài viết:
– Bản Tiếng Việt: https://blogs.worldbank.org/vi/eastasiapacific/how-grassroots-support-can-help-strengthen-viet-nam-s–preparedn?fbclid=IwY2xjawI7unJleHRuA2FlbQIxMAABHdd-ApTD3fxYtF3gnFEwa8opnbgCr9bfgLbKON6yqf-U2mC0nIrYpDlk0Q_aem_xfQdMDUKxTvAavLLrQSH6w
– Bản Tiếng Anh: https://blogs.worldbank.org/en/eastasiapacific/vit-nam-h-tr-a-phng-nng-cao-kh-nng-ng-ph-vi-cc-tnh-hung-y-t-khn-cp-?fbclid=IwY2xjawI7tRdleHRuA2FlbQIxMQABHRKUfUpse-Thrz5gSCQVY6YM9FRZGmmK4iZH2vRrbt1Og-1IU8rU5Upb0g_aem_c3HNwCqfmewGr-VtZaQ91w